Bằng sáng chế cấp cho chủ thể nước ngoài chiếm ưu thế
Theo ThS Nguyễn Minh Huyền Trang, Phó giám đốc phụ trách Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ (Đại học Quốc gia TP.HCM), hiện số đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn từ năm 2007 (2.860 đơn) đến 2017 (5.382 đơn). Tuy nhiên, có đến gần 90% chủ đơn là các tổ chức, cá nhân nước ngoài, trong khi chủ đơn Việt Nam chỉ chiếm con số rất khiêm tốn là trên dưới 10%.
Trong đó, năm 2017, các chủ thể Việt Nam được cấp 109 bằng độc quyền sáng chế (chiếm chưa đến 7% số bằng được cấp trong năm). Trong khi đó, số bằng độc quyền sáng chế cấp cho các chủ thể nước ngoài là 1.636 (chiếm đến hơn 93% số bằng được cấp trong năm).
Như vậy, nếu so sánh với một số nước trong khu vực ASEAN+ 3 thì chúng ta đứng cuối và cách biệt khá xa với Thái Lan, Singapore. Theo tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, năm 2017, tổng số đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của Thái Lan, Malaysia và Việt Nam lần lượt là 3.133, 1.439 và 669.
ThS Nguyễn Minh Huyền Trang cũng nói thêm, hiện vẫn còn khoảng 10% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ từ những năm 1970, 30% sử dụng công nghệ từ những năm 1980 và 50% sử dụng công nghệ từ những năm 1990. Chính vì sử dụng công nghệ lạc hậu, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt không đáp ứng chất lượng, mẫu mã nên sức cạnh tranh thấp. "Nếu xác định các kết quả nghiên cứu phải bảo đảm tính mới, sáng tạo và tính ứng dụng trong thực tiễn thể hiện ở số lượng đơn đăng ký sở hữu trí tuệ nói chung và số đơn đăng ký sáng chế nói riêng như hiện nay thì không phản ánh đúng tiềm năng của các trường, viện. Quá trình chuyển giao công nghệ giữa đại học và doanh nghiệp còn nhiều bất cập và là vấn đề rất cấp thiết trong phát triển nghiên cứu khoa học", bà Huyền Trang nhận định.
Ảnh minh họa
Khó thương mại hóa kết quả nghiên cứu
Theo ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc điều hành Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (Saigon Innovation Hub – Sihub), ở các nước phát triển, hoạt động nghiên cứu đóng vai trò như "kim chỉ nam" và đội ngũ các giảng viên, nhà khoa học sẽ lấy hoạt động nghiên cứu làm nguồn thu chủ yếu. Ngược lại ở Việt Nam, tại các trường đại học, việc dạy vẫn là nhiệm vụ hàng đầu.
Trong những năm gần đây, chủ trương áp dụng cơ chế tự chủ của Chính phủ đối với các trường đã thúc đẩy các cơ sở giáo dục tiệm cận với cơ chế thị trường; các trường phải quan tâm đến việc tạo được các sản phẩm, dịch vụ tốt cho thị trường từ nguồn lực sẵn có. Tuy nhiên, hiên vẫn còn rất nhiều rào cản về chính sách, nhận thức, thói quen, kiến thức liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… Ở cấp trường, công nghệ dừng lại tại phòng thí nghiệm nên rủi ro cao khi triển khai ứng dụng hoặc các trường đại học còn xem nhẹ việc nghiên cứu những đề tài, giải pháp có giá trị đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội.
Về mặt giải pháp, theo ông Huỳnh Kim Tước, mô hình công ty đại diện chuyển giao công nghệ của trường đại học có thể thay thế hoàn toàn vai trò của trung tâm chuyển giao công nghệ tại một số trường đại học. Mô hình công ty này cũng có thể đảm nhận vai trò của vườm ươm công nghệ trong việc hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) và doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off). Trong trường hợp trường đại học đã có mô hình trung tâm chuyển giao và vườn ươm công nghệ thì vai trò chuyển giao của công ty tập trung ở khâu thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay của các trường đó là “luật pháp Việt Nam vẫn chưa cho phép các trường đại học được đầu tư tài chính. Trên thế giới, phần đầu tư tài chính mới là phần chính. Tức là, tài sản của nhà trường của các nguồn khi đầu tư xong thì tạo ra tài sản. Tài sản đó được bàn giao cho công ty quản lý. Công ty quản lý tài sản đó có các hướng là phát triển thành các start-up, spin-off… Dù ở góc độ nào cũng sẽ hình thành các vấn đề về tài chính, vì vậy bắt buộc phải hướng đến chức năng đầu tư tài chính”.