Báo cáo tại Hội nghị, ông Lê Ngọc Lâm, Phó Cục trưởng Cục SHTT cho biết, trong năm 2015 Cục SHTT đã tiếp nhận 93.985 đơn các loại, gồm 50.975 đơn đăng ký xác lập quyền (tăng 10% so với năm 2014) và 43.010 đơn khác. Về việc xử lý đơn, Cục SHTT đã xử lý 75.283 đơn các loại, trong đó có 35.360 đơn đăng ký xác lập quyền (giảm 8,7% so với năm 2014), trong đó: chấp nhận bảo hộ 25.621 đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN); từ chối bảo hộ 9.739 đối tượng SHCN; ngoài ra đã xử lý 39.923 đơn các loại khác. Số văn bằng bảo hộ đã cấp: Đã chấp nhận và cấp văn bằng bảo hộ 25.337 đối tượng SHCN (giảm 6,1% so với năm 2014).
Theo ông Lê Ngọc Lâm, công tác xử lý đơn chưa đáp ứng được kỳ vọng của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp, do có nhiều khó khăn cả về phía chủ quan và khách quan. Trong đó nguyên nhân chính là hệ thống công nghệ thông tin chưa được nâng cấp kịp thời trong khi dữ liệu ngày càng lớn nên ảnh hưởng đến tốc độ tra cứu và xử lý; sự cố mất dữ liệu trong hệ thống IPAS vẫn chưa khắc phục được nhiều đã làm ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết đơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất tuy được tăng cường hằng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trước mắt cũng như trung hạn.
Nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động quản lý nhà nước về SHTT trong thời gian tới, nhiều giải pháp đã được đưa ra, trong đó có việc hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền ký để ban hành Chương trình hành động quốc gia về SHTT. Sẽ tập trung hoàn thiện các văn bản pháp luật về SHTT, cụ thể: xây dựng Kế hoạch sửa đổi Luật SHTT và các văn bản pháp luật có liên quan; hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền ký ban hành các thông tư sửa đổi Thông tư 01, Thông tư 22 về phí và lệ phí và Thông tư về tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định về sáng kiến. Bên cạnh đó cần tiến hành các giải pháp đồng bộ để nâng cao tốc độ xử lý đơn đăng ký SHCN, cụ thể: triển khai tốt Dự án “Xây dựng hệ thống thông tin tích hợp phục vụ công tác thẩm định đơn đăng ký SHTT”, hoàn thiện Quy định về phân cấp trong xử lý đơn, tăng cường đào tạo cán bộ và xây dựng hệ thống quản lý chất lượng; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác của Cục, đặc biệt là công tác quản trị đơn SHCN; triển khai việc nộp đơn điện tử trực tuyến và giao dịch với người nộp đơn qua mạng Internet theo Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Trần Việt Thanh khẳng định, thời gian qua hoạt động SHTT đã diễn ra sôi động trên phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp thiết thực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Cục SHTT và các địa phương đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển trong lĩnh vực này và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, hoạt động SHTT trong những năm qua cũng bộc lộ những tồn tại, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Điển hình là việc chậm ban hành văn pháp luật, tồn đọng trong công tác thẩm định đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp, một số hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp về phát triển tài sản trí tuệ còn chậm được triển khai.
Phát biểu tại Hội nghị, đề cao vai trò của SHTT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đối với địa phương nói riêng, ông Lê Khắc Nam - Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng cho biết: Trong thời gian qua Thành phố Hải Phòng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ KH&CN trong triển khai cac hoạt động SHTT, đặc biệt là công tác quản lý, hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố. Nhằm đưa KH&CN thực sự là động lực quan trọng để nâng sức mạnh tổng hợp của thành phố về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... Cụ thể trong giai đoạn 2011-2015, toàn Thành phố Hải Phòng có gần 1.500 đơn đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN, có thêm gần 1.000 văn bằng được cấp, gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2006-2010.
Tại hội nghị, các đại biểu đến từ các sở KH&CN cũng chia sẻ những kết quả, cũng như những khó khăn trong hoạt động quản lý SHTT, đồng thời kiến nghị các giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động SHTT thời gian tới góp phần thúc đẩy hoạt động sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, việc tăng tiến độ xử lý đơn được nhiều địa phương kiến nghị nhằm hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.