Các quốc gia trên thế giới đang tập trung vào việc cải thiện kỹ thuật xử lý nước thải, đặc biệt là khi nói đến công việc xử lý chất ô nhiễm có trong nước thải. Các chất hợp chất trâu (N), phopho (P) là thành phần tự nhiên của môi trường nước và lượng thích hợp để các chất dinh dưỡng này cần thiết cho hoạt động bình thường của các sinh vật sống trong môi trường tự nhiên . Việc loại bỏ N và dư thừa ra khỏi nước thải một cách hiệu quả là rất quan trọng để ngăn chặn hiện tượng giàu dưỡng hóa và thu hồi chất lượng môi trường nước.
Vi tảo (vi tảo) là nhóm sinh vật sản xuất của thức ăn chuỗi, có vai trò rất quan trọng trong quá trình sinh học địa hóa của các nguyên tố cơ bản trong môi trường và trong việc cân bằng, sức khỏe của hệ sinh thái thái thủy vực.Nghiên cứu nghiên cứu về hấp thu chất dinh dưỡng và kim loại trong môi trường nước; tích lũy kim loại nặng của vi tảo có ý nghĩa thực tiễn về việc sử dụng nhóm sinh vật này trong cải thiện, xử lý môi trường nước nhiễm độc chất hữu cơ cơ hay tế bào nhiễm kim loại nặng một cách thân thiện với môi trường và môi trường toàn bộ trong hệ sinh thái.
Trong nhiều năm qua, nhiều loài tảo khác nhau đã được thử nghiệm để khám phá tiềm năng của chúng trong môi trường nước nước cải thiện chất lượng. Hiệu quả xử lý các chất ô nhiễm nhiễm độc cũng như loại bỏ các chất dinh dưỡng, kim loại của vi tảo trong môi trường nước khác nhau đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu liên quan và đặc biệt sử dụng vi tảo được phân lập ở Việt Nam còn rất Khiêm tốn, rời rạc.
Việc sử dụng các loại tảo hiện tại ở Việt Nam cho môi trường cải thiện tốt nước sẽ có nhiều khả năng hơn so với việc sử dụng các loại tảo nhập từ nước ngoài về. So với loài vi tảo nhập từ nước ngoài về, loài vi tảo ở Việt Nam đã quen thuộc và sống tốt trong điều kiện môi trường đang có tại Việt Nam, đồng thời góp ý khai phá những nguồn tài nguyên sinh học nước nhà .
Vi tảo lục nước phân lập tại Việt Nam (Scenedesmus sp.) có thể sống được trong điều kiện môi trường nước tăng mặn. Axit vi tảo lục có thể hấp thụ thu các chất dinh dưỡng và kim loại hợp chất (với nghiên cứu hình ảnh với nhôm - Al) trong môi trường nước.
tảo vi tảo Scenedesmus sp. được phân lập từ sông Sài Gòn và nuôi dưỡng trong môi trường nhân tạo ở phòng thí nghiệm điều kiện. Hàm lượng dinh dưỡng (hợp chất nitrat, hợp chất photphat) và kim loại (Al) được bổ sung vào môi trường nhân tạo. Nồng độ của chúng (N, P, Al) được xác định theo định lượng thông tin phân tích hóa học vào ngày bắt đầu, trong thời gian thử nghiệm và khi kết thúc thử nghiệm.
Sau 14 ngày thí nghiệm, hàm lượng nitrat (NO3-, nồng độ ban đầu là 387 mg/l) giảm dần theo thời gian ở tất cả các lô thí nghiệm (nghiệm thức) có nồng độ mặn 0, 2 và 4‰. Thời gian càng kéo dài thì hàm lượng nitrat càng giảm xuống trong cả 3 công thức thí nghiệm. Sau 20 ngày nghiên cứu, vi tảo trong môi trường nước ngọt (0‰) đã hấp thu 39% (150 mg/l) lượng nitrat, còn trong môi trường nước lợ ở độ mặn 2 và 4‰, lần như giảm 56 (209 mg/l) và 36% (134 mg/l).
Hàm lượng photphat (PO43-, nồng độ ban đầu là 16,95 mg/l) trong cả 3 thử nghiệm công thức giảm liên tục theo thời gian (5, 10 và 20 ngày). Theo kết quả phân tích, sau 20 ngày, hàm lượng photphat trong môi trường nước ngọt (độ mặn 0‰) giảm 88% (14,06 mg/l), môi trường với độ mặn 2‰ giảm 75% (12,03 mg/l) và môi trường có nồng độ mặn 4‰ giảm 51% (8,62 mg/l).
Trong thí nghiệm về khả năng loại bỏ nhôm (Al vượt nồng độ ban đầu là 1.054 μg/l), khi kết thúc thí nghiệm, giảm đi 95 - 98% do hấp thu Al bởi vi tảo Scenedesmus sp. Nghiên cứu đã tìm thấy khả năng nghiên cứu thích nghi của vi tảo nước ngọt phân lập từ sông Sài Gòn (Scenedesmus sp.) đối với tốc độ tăng mặn lên đến 4‰. Bên rìa đó, sự hấp thu dinh dưỡng của vi tảo rất hiệu quả trong môi trường nước ngọt và nước lợ.
Lượng nitrat và phốt phát được từ tảo Scenedesmus sp. hấp thu ở môi trường nước cao hơn so với các nghiên cứu đã được công bố trước đây. Đặc biệt ở môi trường nước lợ với độ mặn 2‰, nồng độ dinh dưỡng đã được xử lý hiệu quả và cao hơn môi trường nước ngọt khi hấp thu nitrat khoảng 56%.
Giải pháp dựa vào tự nhiên với công việc tìm hiểu, khai thác tài nguyên sinh học (vi tảo) của đất nước là một tiềm năng và những khám phá cũng như khả năng ứng dụng vẫn chưa được hiểu rõ, đồng thời chưa được khai thác thác một cách đúng đắn trong việc định hướng vững chắc cũng như trong hậu cảnh biến đổi bối cảnh.