Tin KHCN trong nước
Ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong sàng lọc, chẩn đoán sớm và điều trị đích ung thư phế quản (18/05/2016)
-   +   A-   A+   In  

Nhóm nghiên cứu của Bệnh viện Phổi Trung ương do PGS.TS Đinh Ngọc Sỹ đứng đầu mới đây đã xây dựng thành công quy trình sàng lọc ung thư phế quản (UTPQ) sử dụng ánh sáng huỳnh quang qua nội soi phế quản, quy trình chẩn đoán gen VGFR trong ung thư phế quản và quy trình điều trị đích ung thư phế quản bằng Bevacizumab phù hợp và khả thi tại Việt Nam.

Đây là kết quả của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong sàng lọc, chẩn đoán sớm và điều trị đích ung thư phế quản tại Việt Nam”, mã số KC.10.29/11-15 thuộc Chương trình khoa học và công nghệ (KH&CN) trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2011-2015 “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng” (mã số KC.10/11-15). Đề tài vừa được Hội đồng KH&CN cấp Quốc gia do Bộ KH&CN tổ chức đánh giá nghiệm thu.

 

GS.TS Phạm Gia Khánh, Chủ nhiệm Chương trình KC.10/11-15 phát biểu tại buổi họp Hội đồng KH&CN nghiệm thu đề tài

 

Theo PGS.TS Đinh Ngọc Sỹ, tại Việt Nam, UTPQ đứng đầu ở nam, đứng thứ ba ở nữ. Tỷ lệ mắc UTPQ ở Hà Nội: 39,5/100.000 dân (2004 – 2008) ở nam, 10,5/100.000 dân (2001 – 2004) ở nữ. Tại TP.HCM: 26,9/100000 nam và 7,5/100.000 nữ. Tỉ lệ bệnh nhân mắc UTPQ tăng rất nhanh chóng trong những năm gần đây.

 

Đa số người bệnh được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn muộn (IIIb và IV). Hiện nay, các tiến bộ về công nghệ sinh học và dược phẩm đã cho phép điều trị đích và giúp người bệnh kéo dài sự sống. Tuy nhiên chẩn đoán sớm vẫn là chìa khóa để tiến tới điều trị khỏi ung thư.

 

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhóm nghiên cứu của Bệnh viện Phổi Trung ương đã đề xuất và triển khai đề tài KC.10.29/11-15 với mục tiêu xây dựng được quy trình sàng lọc, chẩn đoán sớm UTPQ; xây dựng được quy trình điều trị đích UTPQ bằng Bevacizumab; đánh giá được hiệu quả sàng lọc, chẩn đoán và điều trị UTPQ bằng các quy trình trên.

 

Đề tài được thực hiện từ ngày 01/04/2013 đến ngày 01/09/2015. Nhóm nghiên cứu đã chọn đối tượng là những người trên 40 tuổi đang sống và sinh hoạt trong cộng đồng, gồm 60 bệnh nhân UTPQ giai đoạn IIIb, IV tại Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hưng Yên và Bệnh viện Phổi Trung ương.

 

Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xây dựng thành công quy trình sàng lọc UTPQ sử dụng ánh sáng huỳnh quang qua nội soi phế quản. Quy trình đơn giản, có thể áp dụng tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh.

 

Đồng thời, xây dựng thành công quy trình chẩn đoán gen VGFR trong UTPQ. Quy trình phát hiện bộc lộ gene VEGF mRNA và kiểu gene VEGF đã được xây dựng với các yêu cầu kỹ thuật bảo đảm và cho kết quả xét nghiệm gen chính xác. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng sinh phẩm chế tạo tại đơn vị nghiên cứu, giá thành rẻ hơn của nước ngoài nhưng kết quả tương tự. Quy trình này có thể ứng dụng rộng rãi tại bất kỳ phòng xét nghiệm sinh học phân tử nào. Dấu ấn phân tử VEGF mRNA biểu hiện 93,3% ở máu ngoại vi của các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ. Giá trị tăng thêm của quá trình thực hiện qui trình bộc lộ gene là đã lần đầu tiên phát hiện được vật chất di truyền oncovirus merkel cell carcinoma trên bệnh nhân ung thư phổi tại Việt Nam. Tỷ lệ có Merkel cell virus ở 23,9% số bệnh phẩm ung thư phổi.

 

Cùng với đó, xây dựng thành công quy trình điều trị đích ung thư phế quản bằng Bevacizumab phù hợp và khả thi tại Việt Nam.

 

PGS.TS Đinh Ngọc Sỹ- Chủ nhiệm đề tài báo cáo kết quả đề tài

 

Theo nhóm nghiên cứu, việc triển khai sàng lọc yếu tố nguy cơ bằng bộ câu hỏi có thể áp dụng rộng rãi tại cơ sở y tế khám, chữa bệnh các tuyến cho người có nguy cơ cao về UTPQ. Tỷ lệ bộc lộ gene VEGF ở bệnh nhân ung thư phổi là rất cao (93,3%) cho nên không nhất thiết coi xét nghiệm VEGF như một chỉ định bắt buộc cho bệnh nhân UTP trước khi điều trị thuốc ức chế sinh mạch. Bevazicumab điều trị đích đã chứng tỏ tác dụng điều trị kéo dài thời gian sống cho người bệnh UTPQ.

 

Nhóm nghiên cứu kiến nghị, cần tiếp tục có nghiên cứu sâu hơn về vai trò của vật chất di truyền oncovirus merkel cell carcinoma trên bệnh nhân UTPQ tại Việt Nam.

Nguồn: most.gov.vn

Số lượt đọc: 6152

Về trang trước Về đầu trang

TIN TỨC KHÁC
  • Bộ KH&CN giải đáp cho doanh nghiệp về hiệu lực Giấy chứng nhận hợp quy (22/10/2018)
  • Hiện trạng và giải pháp ứng dụng công nghệ bảo quản trên tàu khai thác xa bờ và tàu hậu cần thuỷ sản của tỉnh BR-VT (22/10/2018)
  • Công nghệ chế biến một số sản phẩm giá trị gia tăng từ nguyên liệu còn lại trong công nghiệp chế biến cá (19/10/2018)
  • Hội nghị Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ ASEAN không chính thức lần thứ 10 (IAMMST-10) (19/10/2018)
  • Giải pháp ứng dụng công nghệ thủy phân đối với nguyên liệu cá tạp và triển vọng ứng dụng (18/10/2018)
  • Giải pháp công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm surimi và sản phẩm mô phỏng từ surimi trong quá trình chế biến và bảo quản tại các nhà máy chế biến surimi trên địa bàn tỉnh (18/10/2018)
  • Ứng dụng kỹ thuật sấy bằng bơm nhiệt (heat pump) để cải thiện chất lượng và tiết kiệm năng lượng cho quá trình sản xuất các sản phẩm khô thủy sản (18/10/2018)
  • Những giải pháp công nghệ mới trong sản xuất chitin, chitosan từ phế liệu của các nhà máy chế biến (tôm, mực, ghẹ, …) trên địa bàn tỉnh BR-VT (18/10/2018)
  • Công nghệ sản xuất collagen, gelatine từ nguyên liệu còn lại của nhà máy chế biến thủy sản (xương, da, vây, vẩy) và khả năng ứng dụng trên địa bàn tỉnh BR-VT (17/10/2018)
  • Ứng dụng công nghệ trong thu hồi protein từ nước rửa trong quá trình sản xuất surimi, chả cá tại các nhà máy chế biến trên địa bàn tỉnh BR-VT (17/10/2018)