Thực hiện chính sách dân tộc trên tinh thần tương trợ không phải là ban phát
Phát biểu kết luận Hội nghị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của UBDT, Bộ KH&CN và các cơ quan liên quan trong công tác quản lý cũng như sự tâm huyết và đầy trách nhiệm của các tổ chức, nhà khoa học tham gia chủ trì thực hiện các nhiệm vụ khoa học của Chương trình. Thành tích này sẽ là cơ sở, là tiền đề để hướng đến thực hiện Chương trình thành công hơn nữa trong giai đoạn 2021-2025.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nêu rõ: Đây là vấn đề lớn, quan trọng để góp phần vào thực hiện thành công Nghị quyết số 88/NQ-QH14 của Quốc hội về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết này của Quốc hội.
“Việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta là vấn đề chiến lược, sống còn, chìa khóa đi đến thành công. Bác Hồ luôn nhấn mạnh đây là vấn đề then chốt, trên cơ sở “đoàn kết, bình đẳng, tương trợ” trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau không ban phát mà đầu tư để nâng cao dân trí, giữ gìn văn hóa truyền thống tốt đẹp, cùng tiến bộ, hướng đến mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đất nước ta ngày càng giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Phó Thủ tướng Thường trực nêu rõ.
Muốn vậy, chúng ta phải đào tạo nguồn lực tri thức trẻ, doanh nghiệp trẻ, sáng tạo và khởi nghiệp, ứng dụng KH&CN, đồng bào có kỹ năng, phương thức làm ăn mới hiệu quả để cùng với các chính sách quan trọng và toàn diện của Đảng và Nhà nước nhằm đưa đồng bào dân tộc và miền núi từng bước tiến kịp miền xuôi, đời sống ngày càng ấm no, quốc phòng an ninh được giữ vững, biên giới trở thành khu vực hòa bình, phát triển, chủ quyền quốc gia luôn được bảo đảm…
Phó Thủ tướng Thường trực cho biết: Qua thực tế làm việc tại các địa phương cho thấy, nhiều địa phương như Sơn La, đồng bào đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống như trồng nhiều loại cây cho năng suất, chất lượng và giá trị cao. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nơi đồng bào các dân tộc vẫn còn tỷ lệ đói nghèo cao, điều kiện thích nghi với khoa học kỹ thuật hiện đại và còn rất ít số lượng cán bộ kỹ thuật hướng dẫn bà con ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống của mình.
“Chúng ta cứ nói kinh tế số, dữ liệu số, ngân hàng số… đều rất chung chung với đồng bào. Phải biến những điều này đi vào thực tế cuộc sống của đồng bào, biến thành hiệu quả và tác dụng tích cực trong cuộc sống, lúc ấy bà con mới thấy rõ tác động của KH&CN đối với đời sống. Như thế, chính sách và các nghiên cứu KH&CN mới thực sự đi vào đời sống”, Phó Thủ tướng Thường trực nói.
Đặc biệt, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nhấn mạnh: Nghiên cứu KH&CN phải gắn với thực tiễn phong phú và đòi hỏi của cuộc sống. Theo đó, các công trình KH&CN phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn phong phú của đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở các vùng miền trong cả nước, có như vậy mới đi vào cuộc sống, phát huy tích cực các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học.
KH&CN phải là giải pháp
Để Chương trình KH&CN giai đoạn 2021-2025 thực sự có hiệu quả, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đề nghị: Chương trình cần phải bám sát và triển khai có hiệu quả các nội dung có liên quan tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nội dung về công tác KH&CN, chương trình dân tộc (CTDT), Kết luận số 65KL/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 88/2019/QH14 và 120/2020/QH14 của Quốc hội…; Chương trình cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu, thiết thực; thực hiện cơ chế vừa chuyển giao kết quả cho các ban, bộ, ngành và các cơ quan liên quan, để kịp thời cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện thành công chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về CTDT; cần tiếp tục nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Ủy dân Dân tộc, Bộ KH&CN, các ban, bộ ngành liên quan và các tổ chức, cá nhân nhà khoa học trong tổ chức thực hiện Chương trình, bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật.
Phó Thủ tướng Thường trực ghi nhận và đánh giá cao những kết quả đã đạt được của Chương trình này, đề nghị tiếp tục phát huy tinh thần này trong giai đoạn 2021-2025 và xin lưu ý một số vấn đề lớn.
Một là, bám sát và triển khai có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác dân tộc, nghiên cứu KH&CN được nêu tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Kết luận số 65KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khoá IX về CTDT trong tình hình mới; Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 16/6/2020 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Hai là, Chương trình cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu, thiết thực với trọng tâm là: Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn chưa được nghiên cứu, giải quyết triệt để trong giai đoạn 2016-2020 và các giai đoạn trước đó; trong đó chú trọng vào một số nội dung có tính căn cơ, khung lý thuyết như cơ sở lý luận, thực tiễn về nguồn gốc hình thành, phát triển và tiêu chí xác định thành phần, tên gọi các dân tộc Việt Nam; tầm quan trọng, vai trò và công tác hoạch định chính sách dân tộc trong tình hình mới.
Nghiên cứu các mô hình thí điểm tại một số địa bàn mẫu để đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo đảm tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, đề án phù hợp với đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các dân tộc thiểu số và từng vùng, miền.
Chú trọng nghiên cứu có trọng tâm, trọng điểm vào các mô hình kinh tế, phát minh, sáng chế có tính thực tiễn, kinh phí phù hợp với yêu cầu và tập quán sinh hoạt, sản xuất của người dân tộc thiểu số và vùng miền, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững theo quy mô cấp cộng đồng trên nguyên tắc: "Lấy bản sắc văn hóa, tri thức cộng đồng, truyền thống của các dân tộc thiểu số làm nền tảng, phát triển KT-XH, môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh làm mục tiêu, KH&CN là giải pháp".
Có các giải pháp hỗ trợ, truyền thông phù hợp để nâng cao nhận thức, tinh thần tự lực, tự cường và tiềm năng của đồng bào dân tộc thiểu số trong nghiên cứu KH&CN, phát minh, khởi nghiệp sáng tạo, tự làm giàu cho bản thân, gia đình, thôn bản và xã hội. Nhất là trong thanh niên, tri thức trẻ gắn với đổi mới cơ cấu kinh tế, tổ chức sản xuất theo hướng hàng hóa, hỗ trợ sinh kế, xóa đói giảm nghèo, làm ăn bền vững, thúc đẩy khởi nghiệp các doanh nghiệp và doanh nhân làm hạt nhân trong đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Ba là, phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành và các cơ quan có liên quan để chuyển giao các kết quả nghiên cứu, làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện thành công, có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chính sách dân tộc.
Bốn là, có các giải pháp linh hoạt trong huy động nguồn lực, liên hệ, đặt hàng các viện, trung tâm nghiên cứu và tổ chức, doanh nghiệp để bổ sung nguồn lực thực hiện chương trình.
Chuyển giao 1.106 lượt công nghệ mới, tiên tiến phù hợp với từng vùng miền
Theo báo cáo, Chương trình CTDT/16-20 bắt đầu triển khai từ năm 2015 với mục tiêu: Cung cấp luận cứ khoa học nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản mang tính chiến lược và thực tiễn cấp bách liên quan đến dân tộc thiểu số, từ đó thực hiện đổi mới chính sách dân tộc đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện thành công Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Tính đến nay, đã có tổng số 51 nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia được triển khai thực hiện. Tổng kinh phí triển khai thực hiện Chương trình KH&CN cấp quốc gia CTDT/16-20 là 176,1 tỷ đồng.
Giai đoạn 2016-2020, Chương trình đã xây dựng được 2.324 mô hình ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN có hiệu quả, quy mô phù hợp với điều kiện sinh thái cho 34 tỉnh/thành phố vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó: Thực hiện được 30 mô hình sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị; 14 mô hình ứng dụng công nghệ thông tin; 27 mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hỗ trợ tạo việc làm cho trên 2.000 lao động thường xuyên và 5.000 lao động thời vụ, tạo sinh kế cho đồng bào; đã chuyển giao được 1.106 lượt công nghệ mới, tiên tiến phù hợp với từng vùng miền, thúc đẩy phát triển KT-XH vùng dân tộc thiểu số và miền núi; hỗ trợ đào tạo trên 1.000 cán bộ quản lý KH&CN, 2.484 cán bộ kỹ thuật, kỹ thuật viên cơ sở; tập huấn cho 45.328 lượt nông dân các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi…
Đã có tổng số 205 bài báo khoa học được công bố trên tạp chí khoa học có uy tín của quốc gia; 72 bài báo khoa học được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế, trong đó có 23 bài báo khoa học nằm trong danh mục ISI, SCOPUS; xuất bản hơn 50 đầu sách; hỗ trợ đào tạo cho trên 80 nghiên cứu sinh và 150 thạc sĩ.
* Tại hội nghị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh và Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã ký kết Chương trình phối hợp hoạt động giữa Bộ KH&CN và Ủy ban Dân tộc, giai đoạn 2021-2025.