Tin KHCN trong nước
Nhà khoa học nữ đầu tiên đạt Giải thưởng Trần Đại Nghĩa: Muốn làm khoa học phải có đam mê (18/05/2019)
-   +   A-   A+   In  

Để cho ra được những sản phẩm khoa học mang hàm lượng tri thức và tính ứng dụng thực tiễn cao, không ít nhà khoa học đã phải bỏ bao công sức, tiền bạc, thậm chí cả tuổi thanh xuân để theo đuổi con đường nghiên cứu.

Và trong quá trình gian khổ ấy, động lực mạnh mẽ để họ tiếp tục tiến bước có lẽ chính là đam mê. Nhân dịp kỷ niệm Ngày khoa học công nghệ Việt Nam 18/5, Chất lượng Việt Nam Online (VietQ.vn) đã thực hiện bài phỏng vấn với GS. TS Nguyễn Thị Lang, nhà khoa học nữ đầu tiên được vinh danh tại Giải thưởng Trần Đại Nghĩa xoay quanh vấn đề này.

Được biết, bà là nhà khoa học nữ đầu tiên được trao tặng Giải thưởng Trần Đại Nghĩa - một giải thưởng có tiếng vang trong cộng đồng nghiên cứu khoa học. Khi được nhận giải thưởng danh giá này, cảm xúc mà bà có là gì?

Đối với cá nhân tôi, việc được trao tặng Giải thưởng Trần Đại Nghĩa năm 2019 là một vinh dự hết sức lớn lao. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng đây là phần thưởng của riêng mình. Nói theo cách khác thì đây chính là đóng góp chung của nhiều nhà khoa học trong ngành nông nghiệp bởi trong quá trình tôi thực hiện đề tài, tôi cũng đã nhận được sự hỗ trợ, cổ vũ, những chia sẻ quý báu từ các đồng nghiệp. Bản thân tôi đặc biệt trân trọng sự hợp tác ấy. Thành tích này thuộc về nhiều thế hệ các nhà khoa học nối tiếp nhau xây dựng và phát triển, trong đó có cả nhưng người đã không còn nữa.

Đại văn hào Tagore của Ấn Độ đã từng nói rằng: “Chúng ta biết ơn ngọn đèn cho chúng ta ánh sáng. Chúng ta cũng phải biết ơn giá chân đèn đã âm thầm đứng trong bóng tối để mang ngọn đèn tỏa sáng khắp nơi nơi”. Thành quả mà chúng tôi đạt được hôm nay trước hết thuộc hàng triệu người đã hi sinh âm thầm làm giá chân đèn đứng trong bóng tối như vậy, để có một ít các nhà khoa học tên tuổi tỏa sáng.

Đó là những nông dân cần mẫn, tiếp thu nhanh kỹ thuật, sáng tạo trên ruộng đồng. Đó là những cán bộ khoa học lăn lộn trong sản xuất, cùng với nông dân, cán bộ khuyến nông, cùng các doanh nghiệp năng động tạo nhiều đột phá mới để nông sản Việt Nam thực sự trở thành hàng hóa, tiếp cận được những thị trường xuất khẩu nổi tiếng “khó tính”.

Nhân dịp này, chúng tôi cũng xin phép được tri ân những người thầy, những cán bộ lão thành vẫn tiếp tục giúp đỡ thế hệ trẻ cho đến ngày cuối của cuộc đời .

Bà có thể chia sẻ quan điểm về những khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học hiện nay không?

Thực ra việc phát triển những đề tài nghiên cứu khoa học chưa khi nào là không gặp khó khăn. Cái khó đầu tiên là việc để cho ra một sản phẩm nghiên cứu thành công thì sẽ phải trải qua những thất bại trong quá trình thử nghiệm, ứng dụng ban đầu. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu và cảm thông cho sự khó khăn này của các nhà khoa học khi thực hiện các công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học.

Khó khăn thứ hai mà tôi muốn nhắc đến đó chính là vấn đề nhân lực cho nghiên cứu khoa học. Trong bối cảnh chung thu nhập bình quân đầu người của nước ta còn thấp, rất nhiều người (dù có đam mê khoa học) vẫn phải bỏ dở vì gánh nặng cơm áo, gạo tiền. Nếu như hằng ngày đều phải nghĩ rằng làm gì để có cơm ăn thì thời gian đâu mà nghiên cứu khoa học. Cho nên mới nói, người làm khoa học phải hy sinh nhiều lắm.

Vấn đề khó khăn thứ ba tôi muốn đề cập là sự kết nối, hợp tác, chung tay của lực lượng những người làm công tác quản lý, theo dõi hoạt động nghiên cứu chưa được chặt chẽ cho lắm. Ví dụ khi tôi sang các nước như là Hàn Quốc, Nhật Bản thì thấy lực lượng cán bộ, những người làm công tác quản lý nghiên cứu khoa học công nghệ của những quốc gia này họ nối kết với nhau rất chặt chẽ.

Những người đi trước có kinh nghiệm sẽ chỉ cho những người đi sau để nắm bắt và biết về những điều cốt yếu. Giả dụ đối tượng mà họ đang thu thập thông tin là hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam thì họ sẽ rất tỷ mỉ ghi chép xem Việt Nam đã từng hợp tác với ai, nghiên cứu cái gì... Tuy nhiên ở Việt Nam thì điều này chưa được quan tâm đúng mức, việc ai người đó làm, mạnh ai người đó nghiên cứu, mạnh ai người đó quảng bá.

Bốn là, mặc dù Bộ KH&CN và các cơ quan tổ chức viện nghiên cứu cũng đã có những cơ chế khuyến khích, đầu tư rất nhiều các công trình nghiên cứu, các dự án, tuy nhiên, hiệu quả chưa được tối ưu khi còn những bất cập. Ví dụ như việc nguồn lực mình đã thiếu rồi nhưng trong nghiên cứu tập hợp với, kết nối với nhau còn chưa chặt chẽ. Vấn đề sắp xếp nhân lực cũng cần phải đề cập tới bởi có những cán bộ trẻ có kinh nghiệm chưa được sử dụng hợp lý, đôi khi còn có tình trạng “sử dụng theo ekip nhưng không sử dụng theo chuyên môn”. Việc giáo dục, sử dụng con người rất quan trọng bởi nếu không khéo, nó sẽ giống như con dao hai lưỡi.

Thêm vào đó, có trường hợp lực lượng khoa học sơ khai (những người mới ra trường) cũng đi theo từng nhóm chứ không có hệ thống nào cả. Thậm chí, có những người đã có tới 10 năm đào tạo bên nước ngoài về Việt Nam cũng chưa được sử dụng gây lãng phí nhân tài. Cho nên tôi thấy là ngay cả trong nhóm nghiên cứu thì nên chăng chúng ta phải đoàn kết nhau để tạo nên sức mạnh. Như thế sẽ tốt hơn.

Khó khăn thứ 5 tôi muốn nói là, trong nghiên cứu khoa học, ý tưởng nhiều nhưng có khi cả 1.000 ý tưởng mới chọn được một ý tưởng có khả năng được phê duyệt. Trong khi đó, có những ý tưởng dù có khả năng ứng dụng cao nhưng lại vướng thủ tục để xin xét duyệt, cấp kinh phí, phải chờ đợi rất lâu, quy trình thì còn nhiều phức tạp.

GS.TS Nguyễn Thị Lang bên cạnh sản phẩm lúa gạo được phát triển từ công trình nghiên cứu của mình. Ảnh: Hán Hiển 

Vào ngày 18/5, hàng loạt các cơ quan, tổ chức trên cả nước sẽ có nhiều hoạt động để chào mừng kỷ niệm Ngày khoa học công nghệ Việt Nam. Với vị trí là một nhà khoa học, bà có cảm xúc như thế nào?

Ngành nào chắc chắn cũng sẽ có một ngày kỷ niệm riêng. Đối với tôi, dịp kỷ niệm Ngày khoa học công nghệ Việt Nam được tổ chức hàng năm là dịp để những nhà khoa học như chúng tôi có cơ hội thêm tự hào, vinh dự về đam mê mà mình đang theo đuổi. Nói ngày 18/5 là để tôn vinh các nhà khoa học thì chưa đủ, theo tôi, ngày này còn là dịp để những nhà khoa học cùng nhìn lại chặng đường nghiên cứu mà mình đã trải qua, xem đã làm được những gì có ích cho đất nước, còn những thiếu sót gì cần phải cải thiện.

Có ý kiến cho rằng những người làm nghiên cứu khoa học thì thường nghèo, quan điểm của bà về vấn đề này ra sao? Để có thể theo đuổi và gắn bó với con đường nghiên cứu khoa học, theo bà điều gì là quan trọng nhất?

Tôi thấy ý kiến cho rằng người làm nghiên cứu khoa học thường nghèo là đúng, nhưng chưa đủ. Nhận xét này đúng ở chỗ: trước khi được xét duyệt, cấp kinh phí thực hiện các dự án, những nhà khoa học thường phải bỏ kinh phí ra trước để làm, có những người lương tháng chỉ đủ ăn nhưng vẫn phải dành dụm tiền cho những nghiên cứu của mình.

Nhưng câu chuyện kinh phí không chỉ dừng lại ở đó vì khó khăn còn nằm ở chỗ đối với dự án (chưa được ai tài trợ, cấp kinh phí) chỉ cho phép thử nghiệm làm một lần trước nhưng khoa học đâu phải chuyện một lần là có thể thành công. Ví dụ thí nghiệm lần một nếu thành công thì không nói, nếu thất bại thì các nhà khoa học lại phải tự bỏ tiền ra làm lại.

Bản thân tôi cũng đã từng phải gom tiền đi dạy sau đó dồn vào nghiên cứu khoa học.Các con tôi cũng có lần nói rằng có thể sau này chúng nó phải tìm hướng khác, chứ làm nghiên cứu như ba mẹ thì nghèo lắm.

Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, có người nói rằng người làm khoa học sẽ không nghèo. Họ đưa ra lý luận rằng tại sao các nhà khoa học giỏi như vậy, tầm cỡ như vậy lại nghèo, lại không thành công. Phải chăng sản phẩm họ làm ra không hiệu quả, không đem lại lợi ích thiết thực? Cho nên tôi nghĩ rằng, người làm khoa học sẽ không nghèo nếu như những sản phẩm nghiên cứu của họ có tiềm năng, được thương mại hóa. Ví dụ như có người giàu lên nhờ bán công trình, bán bản quyền nghiên cứu.

Nhưng thị trường bản quyền Việt Nam hiện còn hạn chế, nhiều khi bán rồi, hai bên ký rồi, đồng ý cấp kinh phí nhưng đùng cái doanh nghiệp người ta phá sản thì lại không lấy đâu ra kinh phí mà cấp được. Do đó, tôi nghĩ phải có con đường tháo gỡ những vấn đề nan giải này, phải có cơ chế “thoáng” hơn để thúc đẩy nghiên cứu khoa học. Mặt khác, phải tìm được những nhà khoa học chân chính để đầu tư cho đúng mục đích tạo đòn bẩy đột phá cho đất nước.

Cuối cùng, theo tôi, muốn làm khoa học và theo đuổi con đường nghiên cứu đến cùng thì chỉ có đam mê, yêu thích thì mới làm được.

Xin cảm ơn bà!

GS.TS. Nguyễn Thị Lang là nhà khoa học nữ đầu tiên được vinh danh trong Giải thưởng Trần Đại Nghĩa, nhờ có thành tích đặc biệt trong việc lai tạo thành công hàng chục giống lúa có khả năng chịu mặn, chống chịu một số loại bệnh chính (rầy nâu, vàng lùn xoắn lá, bệnh đạo ôn), năng suất, chất lượng cao.

Sau 15 năm thực hiện nghiên cứu với 3 giai đoạn 2016-2011; 2011-2015; 2015-2019  công trình đã góp phần đảm bảo an  ninh nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long. Từ thành công đã đạt được trong những giai đoạn trước của công trình, tác giả cùng nhóm nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu tạo ra các giống lúa có tính kháng đối với nhiều loại côn trùng, nhiều loại bệnh, có hàm lượng dinh dưỡng cao, có khả năng chống khô hạn, chịu được khí hậu nóng, khả năng chịu mặn tốt góp phần thích ứng với những biến đổi của khí hậu.

Kết quả của công trình nghiên cứu chế tạo giống lúa phục vụ Đồng bằng sông Cửu Long đã chọn tạo được 24 giống lúa được công nhận là giống lúa Quốc gia.

 

Nguồn: vietq.vn

Số lượt đọc: 3784

Về trang trước Về đầu trang