Thanh toán phí giao thông bằng thẻ ngân hàng.
Theo đó, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử, hệ thống ATM cơ bản hoạt động ổn định, an toàn, thông suốt, phục vụ tốt nhu cầu thanh toán của người dân.
Tăng về lượng và giá trị
Trong đại dịch Covid-19, tại Việt Nam, việc sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đã tăng vượt bậc. Nhiều người dùng lần đầu trải nghiệm sử dụng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ để thanh toán cho đơn hàng giao tận nhà hoặc chuyển tiền qua ứng dụng ngân hàng trực tuyến. Sau khi dịch lắng xuống, mặc dù việc sử dụng tiền mặt vẫn phổ biến, nhưng tỷ lệ người tiêu dùng chọn các thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng.
Theo nghiên cứu của Visa về “Thái độ thanh toán của người tiêu dùng 2022”, việc sử dụng tiền mặt ở Việt Nam đã giảm đáng kể so cùng kỳ năm 2020. Cụ thể, 89% số người tiêu dùng sử dụng ví điện tử, 85% ưa chuộng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, chủ yếu cho thanh toán trực tuyến và thanh toán không tiếp xúc. Trên thực tế, theo dữ liệu từ mạng lưới VisaNet, số lượng giao dịch không tiếp xúc trên thẻ Visa tại Việt Nam trong năm 2022 đã tăng hơn gấp hai lần so với năm 2021.
Trong khi đó, số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy, với nhiều giải pháp đồng bộ, các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt tăng cao về số lượng và giá trị giao dịch. Trong năm tháng đầu năm 2023, so cùng kỳ, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 52,35% về số lượng; qua kênh internet tăng 75,54% về số lượng và 1,77% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 64,26% và 7,65%; qua phương thức QR code tăng tương ứng 151,14% và 30,41%; qua POS tăng tương ứng 30,35% và 27,27% về giá trị; qua ATM giảm 4,62% về số lượng và 6,43% về giá trị, phản ánh xu hướng dịch chuyển sang thanh toán điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt.
Đến cuối năm 2022, có 22 tổ chức phát hành thẻ triển khai phát hành thẻ bằng eKYC (định danh khách hàng điện tử), số lượng thẻ ngân hàng đang hoạt động phát hành bằng eKYC đạt 10,8 triệu thẻ, số lượng giao dịch thẻ phát hành bằng eKYC đạt hơn 89,1 triệu giao dịch, với giá trị đạt hơn 106,1 nghìn tỷ đồng; có khoảng 40 ngân hàng thực hiện mở tài khoản thanh toán bằng eKYC, với hơn 11,9 triệu tài khoản thanh toán mở bằng eKYC đang hoạt động.
Trưởng bộ phận Phát triển sản phẩm và giải pháp, Visa Việt Nam và Lào, ông Kelvin Utomo chia sẻ, thanh toán kỹ thuật số, đặc biệt thanh toán không tiếp xúc, là một xu hướng đang phát triển nhanh chóng ở châu Á và Việt Nam. Công ty đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể của số lượng các thiết bị chấp nhận thanh toán, điểm chấp nhận thanh toán thẻ, thanh toán không tiếp xúc hoặc mã QR, nhờ vậy, tổng giá trị giao dịch thanh toán thẻ của toàn thị trường Việt Nam năm 2022 đã tăng hơn 50% so với năm 2021.
Đẩy mạnh kết nối dữ liệu
Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Phạm Anh Tuấn cho biết, khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển đổi số ngành ngân hàng liên tục được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, tạo sự đồng bộ và điều kiện thuận lợi cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, ứng dụng công nghệ mới và bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục tổ chức triển khai các Đề án, Chương trình, Kế hoạch, chính sách nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, như: Kế hoạch triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch Chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch của ngành ngân hàng triển khai Đề án 06;...
Bên cạnh đó, các hạ tầng công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển đổi số ngành ngân hàng luôn được chú trọng đầu tư, nâng cấp, phát triển. Hệ thống thanh toán quan trọng được vận hành ổn định, thông suốt và an toàn. Hệ thống Chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử vận hành ổn định, dịch vụ thông suốt. Hệ thống thanh toán bán lẻ Việt Nam cũng đã đạt bước tiến mới vào cuối năm qua khi đã kết nối thanh toán song phương với Thái Lan, cho phép người dân, du khách hai nước có thể thanh toán hàng hóa, dịch vụ thuận tiện qua quét mã QR code. Nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích, đem lại giá trị thiết thực, đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của khách hàng…
Theo nhìn nhận của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Tiến Dũng, hiện nay, dữ liệu và việc phân tích, khai thác, kết nối dữ liệu là yếu tố quyết định tạo nên thành công của quá trình thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và hoạt động chuyển đổi số trong ngành ngân hàng.
Trong thời đại kỹ thuật số, dữ liệu có thể được sử dụng để hiểu, nắm bắt hành vi và xu hướng tiêu dùng của khách hàng, giúp các ngân hàng, doanh nghiệp xác định các cơ hội mới, đưa ra quyết định đúng đắn hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đến tháng 4/2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phối hợp Bộ Công an (C06) hoàn thành xác thực hơn 25 triệu thông tin tín dụng khách hàng vay với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (tăng hơn 7 triệu thông tin so với tháng 3/2023).
Xác định rõ vai trò quan trọng của dữ liệu trong hoạt động ngân hàng cũng như mục tiêu, định hướng của Đề án 06, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các ngân hàng, các tổ chức trung gian thanh toán đã và đang tích cực triển khai việc ứng dụng, kết nối, chia sẻ và khai thác thông tin dữ liệu dân cư trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là thanh toán và tín dụng nhằm đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển đổi số trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, cũng theo Phó Thống đốc Phạm Tiến Dũng, trong quá trình chuyển đổi số, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, ngành ngân hàng đã và đang gặp phải một số thách thức, trong đó phải kể đến thách thức về sự đồng bộ và chuẩn hóa các cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng.
Chính vì vậy, tại các Quyết định, Kế hoạch của Ngân hàng Nhà nước về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển đổi số đều đặt ra nhiệm vụ, giải pháp nghiên cứu và phát triển hạ tầng tập trung để cho phép kết nối, khai thác, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực để khai thác, tổng hợp dữ liệu phục vụ xác minh thông tin, phân loại, đánh giá khách hàng.